Hạ tầng số – Doanhnhanonline.com https://doanhnhanonline.com Kết nối tri thức – Đồng hành cùng doanh nhân Việt Mon, 25 Aug 2025 09:39:21 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/doanhnhanonline/2025/08/doanhnhanonline.svg Hạ tầng số – Doanhnhanonline.com https://doanhnhanonline.com 32 32 Nâng cao liên kết doanh nghiệp để tăng sức cạnh tranh https://doanhnhanonline.com/nang-cao-lien-ket-doanh-nghiep-de-tang-suc-canh-tranh/ Mon, 25 Aug 2025 09:39:13 +0000 https://doanhnhanonline.com/nang-cao-lien-ket-doanh-nghiep-de-tang-suc-canh-tranh/

Trong bối cảnh thế giới đầy biến động, liên kết doanh nghiệp đang trở thành yếu tố quan trọng giúp các doanh nghiệp mở rộng và đa dạng hóa thị trường, kết nối và hiện thực hóa các mô hình kinh doanh mới. Thông qua việc liên kết, doanh nghiệp có thể chia sẻ và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực, giảm thiểu rủi ro và ứng phó hiệu quả với các diễn biến bất lợi, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Đề xuất, kiến nghị, mong muốn của doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh (theo Báo cáo kết quả khảo sát tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quý I/2025 do Cục Thống kê (Bộ Tài chính) thực hiện).
Đề xuất, kiến nghị, mong muốn của doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh (theo Báo cáo kết quả khảo sát tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quý I/2025 do Cục Thống kê (Bộ Tài chính) thực hiện).

Các hình thức liên kết doanh nghiệp hiện nay rất đa dạng, bao gồm hợp tác doanh nghiệp cùng ngành, hình thành chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng, đầu tư, góp vốn, mua bán, sáp nhập và hình thành các nhóm công ty, ký kết hợp tác chiến lược. Đặc biệt, trong mối liên kết với doanh nghiệp nước ngoài, số lượng doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia có xu hướng tăng. Liên kết giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài nhà nước cũng có điều kiện thuận lợi để phát triển thông qua chủ trương cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu doanh nghiệp nhà nước.

Đánh giá của doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo về các nhân tố ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh quý I/2025 (theo Báo cáo kết quả khảo sát tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quý I/2025 do Cục Thống kê (Bộ Tài chính) thực hiện)
Đánh giá của doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo về các nhân tố ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh quý I/2025 (theo Báo cáo kết quả khảo sát tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quý I/2025 do Cục Thống kê (Bộ Tài chính) thực hiện)

Tuy nhiên, theo TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược, doanh nghiệp Việt Nam vẫn thiếu sự liên kết chặt chẽ có tính hệ thống và bài bản. Việt Nam đã có một số doanh nghiệp lớn tham gia cạnh tranh quốc tế và tham gia một số khâu của chuỗi giá trị sản xuất khu vực và thế giới. Tuy nhiên, mạng lưới doanh nghiệp liên kết vẫn bị giới hạn trong phạm vi số ít các doanh nghiệp cùng hệ thống sở hữu.

Đồng thời, còn thiếu các doanh nghiệp lớn, cả doanh nghiệp nhà nước và khu vực tư nhân, có khả năng kết nối, làm chủ chuỗi giá trị và dẫn dắt hệ sinh thái doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước. Hầu hết doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ và vừa, hoạt động đơn lẻ và chưa chủ động tham gia vào các quan hệ đối tác, liên kết.

Trong giai đoạn kinh tế khó khăn, chuỗi cung ứng đứt gãy, các doanh nghiệp trong nước không tạo được vòng tuần hoàn chặt chẽ để cùng liên kết, cung ứng, chia sẻ và tối đa hóa đầu vào, tiêu thụ sản phẩm đầu ra. Số lượng doanh nghiệp trong nước tham gia vào chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia và doanh nghiệp FDI còn hạn chế.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, bao gồm năng lực nội tại của phần lớn doanh nghiệp Việt Nam còn yếu, thể chế, chính sách thúc đẩy liên kết doanh nghiệp chưa đủ. Do đó, cần có các giải pháp đồng bộ để thúc đẩy liên kết doanh nghiệp, bao gồm việc tháo gỡ điểm nghẽn về thể chế, pháp luật, môi trường kinh doanh, xây dựng và phát triển hạ tầng số hiện đại, và chính sách ưu đãi vượt trội về thuế, tiếp cận vốn, bảo lãnh tín dụng.

Các chuyên gia cũng kiến nghị việc cần thiết phải điều chỉnh chính sách thu hút đầu tư nước ngoài theo hướng nâng cao điều kiện ràng buộc về tỷ lệ nội địa hóa và tỷ lệ sản phẩm, dịch vụ được cung cấp bởi các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam. Nhà nước cần đầu tư và có cơ chế ưu đãi đầu tư xây dựng các khu công nghiệp chuyên biệt cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Cần thúc đẩy hình thành và phát triển các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam quy mô lớn đóng vai trò liên kết, quy tụ, dẫn dắt doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước ở một số ngành, lĩnh vực có thể đem lại vị thế quan trọng của quốc gia trong chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu. Để đạt được điều này, cần sự phối hợp và đồng lòng của các bên liên quan, bao gồm doanh nghiệp, Nhà nước và các tổ chức hỗ trợ.

]]>
Việt Nam hướng đến 30 tỷ USD từ thương mại điện tử vào năm 2030 https://doanhnhanonline.com/viet-nam-huong-den-30-ty-usd-tu-thuong-mai-dien-tu-vao-nam-2030/ Mon, 18 Aug 2025 17:09:11 +0000 https://doanhnhanonline.com/viet-nam-huong-den-30-ty-usd-tu-thuong-mai-dien-tu-vao-nam-2030/

Thương mại điện tử Việt Nam đang trải qua giai đoạn phát triển ấn tượng với tốc độ tăng trưởng đáng kinh ngạc trong giai đoạn 2020-2025. Dự kiến, quy mô thương mại điện tử sẽ đạt con số 30 tỷ USD vào năm 2025. Trên cơ sở này, mục tiêu đặt ra cho thương mại điện tử Việt Nam đến năm 2030 là đạt quy mô 30 tỷ USD, chiếm khoảng 15% tổng mức bán lẻ hàng hóa.

Việc đầu tư, nâng cấp các trung tâm dữ liệu lớn, nền tảng thanh toán điện tử và các sàn TMĐT xuyên biên giới cũng nằm trong lộ trình phát triển đến năm 2030. Đồ họa: TT
Việc đầu tư, nâng cấp các trung tâm dữ liệu lớn, nền tảng thanh toán điện tử và các sàn TMĐT xuyên biên giới cũng nằm trong lộ trình phát triển đến năm 2030. Đồ họa: TT

Trong giai đoạn 2021-2025, thương mại điện tử Việt Nam đã chứng kiến sự tăng trưởng mạnh mẽ nhờ vào việc đầu tư có kế hoạch về hạ tầng và khung pháp lý. Bộ Công Thương đã chủ động xây dựng nhiều văn bản quy phạm pháp luật quan trọng, đặc biệt là các nghị định liên quan đến thương mại điện tử, ngoại thương, thị trường và các mô hình kinh doanh số. Song song với đó, việc xây dựng Luật Thương mại điện tử và nghiên cứu sửa đổi Luật Thương mại đã đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, thúc đẩy tính minh bạch, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên không gian số.

Cùng với việc hoàn thiện thể chế, hạ tầng thương mại và logistics cũng được chú trọng đầu tư. Tính đến năm 2023, Việt Nam đã có hơn 30.000 kho bãi và 6 trung tâm logistics cấp quốc gia. Nhờ đó, chỉ số hiệu quả logistics của Việt Nam đã tăng 10 bậc, từ vị trí 53 lên vị trí 43. Hạ tầng số phục vụ thương mại điện tử cũng được đẩy mạnh. Bộ Công Thương hiện cung cấp 267 dịch vụ công trực tuyến, trong đó 100% thủ tục hành chính được thực hiện ở mức độ 3 và 4 trên Cổng Dịch vụ công quốc gia, giúp doanh nghiệp thương mại điện tử tiết kiệm thời gian và chi phí vận hành.

Một yếu tố then chốt góp phần mở rộng không gian thị trường cho hàng hóa và dịch vụ thương mại điện tử chính là việc Việt Nam tích cực ký kết và thực thi các hiệp định thương mại tự do (FTA). Trong giai đoạn 2020-2025, Việt Nam đã ký thêm 4 FTA, nâng tổng số lên 17 hiệp định với 65 đối tác toàn cầu.

อย่างไรก็ตาม, sự phát triển nhanh của thương mại điện tử cũng đặt ra nhiều thách thức cho công tác quản lý thị trường và bảo vệ người tiêu dùng. Trong giai đoạn 2021-2025, gần 290.000 vụ việc đã được kiểm tra, trong đó gần 200.000 vụ vi phạm đã bị cơ quan chức năng xử lý.

Để thực hiện các mục tiêu đến năm 2030, Bộ Công Thương tập trung hoàn thiện Luật Thương mại điện tử; tiếp tục ban hành các chính sách liên quan đến quản lý dữ liệu, bảo vệ người tiêu dùng số, logistics và công nghệ thanh toán. Bên cạnh đó, mở rộng hệ thống logistics phục vụ thương mại điện tử, nâng cao năng lực kho vận, giao hàng nhanh và hiệu quả. Việc đầu tư, nâng cấp các trung tâm dữ liệu lớn, nền tảng thanh toán điện tử và các sàn giao dịch xuyên biên giới cũng nằm trong lộ trình phát triển.

Với sự hỗ trợ mạnh mẽ từ chính sách, hạ tầng và nguồn lực, thương mại điện tử được kỳ vọng sẽ đóng vai trò trung tâm trong tiến trình chuyển đổi số quốc gia, góp phần đưa Việt Nam trở thành nền kinh tế số hàng đầu khu vực.

]]>
Hà Tĩnh đẩy mạnh chuyển đổi số với hạ tầng kỹ thuật và cán bộ CNTT chất lượng https://doanhnhanonline.com/ha-tinh-day-manh-chuyen-doi-so-voi-ha-tang-ky-thuat-va-can-bo-cntt-chat-luong/ Mon, 18 Aug 2025 16:54:41 +0000 https://doanhnhanonline.com/ha-tinh-day-manh-chuyen-doi-so-voi-ha-tang-ky-thuat-va-can-bo-cntt-chat-luong/

Trong quá trình chuyển đổi số, tỉnh Hà Tĩnh đã đạt được những bước chuyển biến rõ nét với sự tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị. Hạ tầng kỹ thuật phục vụ quá trình này đang được xây dựng ngày càng đồng bộ, chính quyền số, kinh tế số và xã hội số đang dần hình thành.

Đẩy mạnh kết nối các cơ sở dữ liệu chuyên dùng của các ngành, lĩnh vực.
Đẩy mạnh kết nối các cơ sở dữ liệu chuyên dùng của các ngành, lĩnh vực.

Tỉnh Hà Tĩnh đã ban hành nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo để triển khai thực hiện công tác chuyển đổi số. Các sở, ban, ngành và địa phương đã tập trung chỉ đạo triển khai nội dung về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Đến nay, công tác chuyển đổi số của Hà Tĩnh đã đạt được những kết quả tích cực bước đầu. Có 24/26 chỉ tiêu theo Nghị quyết 05-NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về tập trung lãnh đạo, chỉ đạo chuyển đổi số tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030 đã hoàn thành.

Ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu về chuyển đổi số trong phát triển sản xuất.
Ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu về chuyển đổi số trong phát triển sản xuất.

Về nhân lực, tỉnh Hà Tĩnh hiện có 612 người làm việc trong lĩnh vực công nghệ thông tin (CNTT) và chuyển đổi số, trong đó 424 người có trình độ chuyên ngành CNTT. Hạ tầng kỹ thuật đang được đầu tư đồng bộ, với mạng di động 4G phủ rộng 99% khu vực dân cư và kết nối internet đến 100% trung tâm xã.

Hà Tĩnh sẽ tiếp tục tập trung đào tạo, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức về ứng dụng CNTT, chuyển đổi số.
Hà Tĩnh sẽ tiếp tục tập trung đào tạo, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức về ứng dụng CNTT, chuyển đổi số.

Tỉnh đã triển khai nhiều nền tảng số và cơ sở dữ liệu, trong đó có 28 nền tảng và cơ sở dữ liệu dùng chung của tỉnh đã được kết nối liên thông với nền tảng dữ liệu quốc gia. Một số cơ sở dữ liệu đã được triển khai và phát huy tốt trong công tác khai thác, định hướng quản lý, phục vụ chỉ đạo điều hành và cung cấp thông tin, dịch vụ cho người dân, doanh nghiệp.

Trong xây dựng chính quyền số, tỉnh đã triển khai nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu tỉnh và đưa vào khai thác. Cổng dịch vụ công trực tuyến đã được triển khai, đáp ứng yêu cầu liên thông từ Trung ương đến xã.

Về kinh tế số, thương mại điện tử, tỉnh đã đảm bảo vận hành an toàn, ổn định hệ thống khai báo, thông quan điện tử và các chương trình vệ tinh. Về xã hội số, tỉnh đã tích hợp Sổ sức khỏe điện tử trên ứng dụng VNeID cho 510.234 người. Các lĩnh vực giáo dục, y tế, du lịch đã triển khai tốt các nền tảng phục vụ xã hội số.

Trong thời gian tới, Hà Tĩnh sẽ tiếp tục triển khai chuyển đổi số nhanh chóng, kịp thời, toàn diện, liên thông, đồng bộ trong hệ thống chính trị. Tỉnh sẽ tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn về thể chế, hạ tầng, dữ liệu và hoàn thiện các nền tảng dùng chung.

Để thực hiện được các mục tiêu đó, Hà Tĩnh sẽ tập trung nâng cao nhận thức, kiến thức, kỹ năng ứng dụng CNTT, chuyển đổi số cho cán bộ, công chức, viên chức, người dân và doanh nghiệp. Tỉnh cũng sẽ thành lập Văn phòng Điều phối Chuyển đổi số cấp tỉnh để triển khai, điều phối, giám sát các hoạt động liên quan đến chuyển đổi số.

]]>